Xuất bản thông tin

null Đưa nội dung Nghị quyết số 43-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về Tiếp tục phát huy truyền thống, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng đất nước ta ngày càng phồn vinh, hạnh phúc vào trong giảng dạy lý luận chính trị

Chi tiết bài viết Tin tức - Sự kiện

Đưa nội dung Nghị quyết số 43-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về Tiếp tục phát huy truyền thống, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng đất nước ta ngày càng phồn vinh, hạnh phúc vào trong giảng dạy lý luận chính trị

ThS. Nguyễn Văn Hiền

Khoa Lý luận cơ sở

Tóm tắt: Tại kỳ họp lần thứ tám của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII đã ban hành rất nhiều Nghị quyết quan trọng. Trong đó, Trung ương đã ban hành Nghị quyết số 43-NQ/TW về Tiếp tục phát huy truyền thống, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng đất nước ta ngày càng phồn vinh, hạnh phúc. Nghị quyết số 43-NQ/TW có ý nghĩa chính trị rất to lớn trong việc đánh giá những kết quả, thành tựu và hạn chế qua 20 năm thực hiện Nghị quyết số 23-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá IX. Nghị quyết 43-NQ/TW rút ra một số bài học kinh nghiệm và xác định những quan điểm, mục tiêu, chủ trương và giải pháp thực hiện tiếp tục phát huy truyền thống, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng đất nước ta ngày càng phồn vinh, hạnh phúc.

I. Đặt vấn đề

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhắc nhở: “cần nghiên cứu sâu để thấm nhuần tinh thần Nghị quyết; nghiên cứu càng sâu thì càng thêm phấn khởi, hoàn thành nhiệm vụ càng tốt. Nhưng cán bộ thấm nhuần chưa đủ. Phải làm cho tinh thần Nghị quyết thấm nhuần trong toàn Đảng, toàn dân, làm cho mọi người thấy hết thắng lợi, khả năng và khó khăn của ta, thấy rõ khả năng của ta to lớn hơn khó khăn nhiều, làm sao cho mọi người vui vẻ, hăng hái làm tròn nhiệm vụ, vì khi nhân dân vui vẻ, hăng hái thì mọi khó khăn sẽ vượt được”[1]. Vì vậy, công tác nghiên cứu, học tập, quán triệt và vận dụng nghị quyết của Đảng là nhiệm vụ hàng đầu trong công tác chính trị, tư tưởng của các cấp ủy, tổ chức đảng và từng cán bộ, đảng viên đặc biệt là đội ngũ giảng viên giảng dạy lý luận chính trị.

II. Nội dung

Phát biểu tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng cũng khẳng định: “Thành công của Đại hội không phải là thông qua được Nghị quyết, bầu Ban Chấp hành mới, quan trọng hơn, sắp tới phải đưa Nghị quyết vào cuộc sống thế nào, biến nó thành hiện thực thế nào”[2]. Do đó, việc đưa nghị quyết đi vào thực tiễn sẽ góp phần tạo sự chuyển biến rõ rệt về nhận thức, thống nhất trong ý chí và hành động; từ đó, phát huy cao độ tinh thần trách nhiệm của mỗi cá nhân trong việc thực hiện tốt Nghị quyết đảm bảo sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng.  

Tại kỳ họp lần thứ tám của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII đã ban hành rất nhiều Nghị quyết quan trọng. Trong đó, Trung ương đã ban hành Nghị quyết số 43-NQ/TW về Tiếp tục phát huy truyền thống, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng đất nước ta ngày càng phồn vinh, hạnh phúc. Nghị quyết số 43-NQ/TW có ý nghĩa chính trị rất to lớn trong việc đánh giá những kết quả, thành tựu và hạn chế qua 20 năm thực hiện Nghị quyết số 23-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá IX. Vì vậy, công tác nghiên cứu, học tập, quán triệt và vận dụng nghị quyết của Đảng là nhiệm vụ hàng đầu trong công tác chính trị, tư tưởng của các cấp ủy, tổ chức đảng và từng cán bộ, đảng viên đặc biệt là đội ngũ giảng viên giảng dạy lý luận chính trị.

Thứ nhất, giảng viên cần phân tích làm rõ những kết quả được Nghị quyết số 43-NQ/TW đã đánh giá qua 20 năm thực hiện Nghị quyết số 23-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá IX, đã hoàn thành cơ bản các mục tiêu, quan điểm, chủ trương và giải pháp chủ yếu mà Nghị quyết đề ra như: tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc, tập trung thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, chăm lo đời sống vật chất và tinh thần cho Nhân dân, bảo đảm an sinh xã hội, từng bước thu hẹp khoảng cách giữa các vùng, miền; quan tâm phát triển toàn diện khu vực miền núi, hải đảo, vùng đồng bào dân tộc thiểu số và vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, giữ vững sự ổn định chính trị - xã hội, tăng cường đồng thuận xã hội, củng cố niềm tin của Nhân dân đối với Đảng và Nhà nước; sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc không ngừng được củng cố, tăng cường và phát huy.

Các giai tầng xã hội chuyển biến tích cực, phát triển mạnh cả về số lượng và chất lượng; quyền làm chủ của Nhân dân trên các lĩnh vực của đời sống xã hội được phát huy mạnh mẽ; Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội, các hội quần chúng tiếp tục đổi mới nội dung và phương thức hoạt động, thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ, khẳng định vị trí, vai trò trong hệ thống chính trị; làm nòng cốt tổ chức vận động, tập hợp đông đảo các tầng lớp Nhân dân...

Công tác tuyên truyền chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc được coi trọng; đa dạng hóa các hình thức tuyên truyền, phát huy hiệu quả các phương tiện truyền thông đại chúng trong công tác chính trị tư tưởng, nâng cao trách nhiệm công dân, tăng cường sự đồng thuận xã hội

Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh được đặc biệt coi trọng, bảo đảm để Đảng thực sự là hạt nhân lãnh đạo khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Việc phát huy vai trò gương mẫu của đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý, người đứng đầu các cấp; nêu cao tự phê bình và phê bình, phát huy dân chủ, tăng cường sự đoàn kết thống nhất trong toàn Đảng, toàn dân và toàn quân

Sau 20 năm thực hiện Nghị quyết về phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc đã góp phần đưa đất nước ta từ một nước chậm phát triển thành nước đang phát triển. Quy mô nền kinh tế đã đạt gần 410 tỷ USD, tăng gấp nhiều lần so với thời điểm ban hành Nghị quyết. Thu nhập bình quân đầu người tăng gấp hơn 8,5 lần, từ 498,58 USD (năm 2000) lên 4.284 USD (năm 2023). Đời sống Nhân dân được cải thiện và nâng lên rõ rệt, tỷ lệ hộ nghèo từ 12% (năm 2003) giảm còn 2,93% (năm 2023). Chính trị - xã hội ổn định, quốc phòng - an ninh được giữ vững, trật tự, an toàn xã hội được đảm bảo, “đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”.

Thứ hai, làm rõ việc thực hiện Nghị quyết 23-NQ/TW còn một số hạn chế, khuyết điểm và những nguyên nhân hạn chế mà Nghị quyết số 43-NQ/TW đã chỉ ra như việc cụ thể hoá và tổ chức thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc ở một số lĩnh vực, địa bàn hiệu quả chưa cao, chưa khơi dậy, phát huy được tiềm năng to lớn trong Nhân dân. Một số chính sách chưa sát với thực tiễn, còn nhiều khó khăn, vướng mắc trong thực hiện. Đời sống của một bộ phận Nhân dân, nhất là ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo còn khó khăn; phân hoá giàu - nghèo và chênh lệch giữa các vùng, miền còn lớn.

Việc bảo đảm cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ” và phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng” có mặt còn hạn chế; quyền làm chủ của Nhân dân có lúc, có nơi chưa được bảo đảm. Việc đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội, phát huy vai trò, hiệu quả hoạt động của các hội quần chúng, nhất là ở cơ sở chưa đáp ứng yêu cầu.

Nguyên nhân của những hạn chế, khuyết điểm nêu trên chủ yếu là do: Nhận thức của một số cấp uỷ, tổ chức đảng chưa đầy đủ, sâu sắc về vị trí, tầm quan trọng của việc phát huy truyền thống và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc; thực hiện chưa nghiêm đường lối, chủ trương của Đảng. Một bộ phận cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức thiếu gương mẫu, chưa thực sự gần dân, tôn trọng dân, lắng nghe, kịp thời giải quyết những kiến nghị liên quan đến quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của Nhân dân. Nghiên cứu lý luận trên một số mặt chưa theo kịp với thực tiễn phân hoá, biến đổi của các giai tầng xã hội, chưa làm rõ mối quan hệ liên minh giữa giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức trong giai đoạn mới. Sự chống phá ngày càng tinh vi, phức tạp của các thế lực thù địch nhằm chia rẽ Nhân dân với Đảng, Nhà nước, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc.

Thứ ba, phân tích 4 quan điểm và mục tiêu đến năm 2030, năm 2045 và giữa thế kỷ XXI của Nghị quyết số 43-NQ/TW.

Quan điểm thứ nhất: Đảng ta tiếp tục khẳng định đại đoàn kết toàn dân tộc là truyền thống quý báu, đường lối chiến lược quan trọng, xuyên suốt của Đảng; nguồn sức mạnh to lớn, nhân tố quyết định thắng lợi sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Nền tảng vững chắc của đại đoàn kết toàn dân tộc là liên minh giữa giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức do Đảng lãnh đạo; là mối quan hệ bền chặt giữa Đảng và Nhân dân, là niềm tin của Nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ; là đoàn kết trong Đảng, đoàn kết giữa các giai tầng xã hội, giữa cộng đồng các dân tộc Việt Nam, giữa đồng bào theo tôn giáo và không theo tôn giáo, giữa những người theo các tôn giáo khác nhau, giữa người Việt Nam ở trong và ngoài nước; là đoàn kết giữa Nhân dân Việt Nam và Nhân dân yêu chuộng hoà bình, tiến bộ trên thế giới.

Quan điểm thứ hai: Có tính hiệu triệu người Việt Nam ở trong nước và người Việt Nam ở nước ngoài. Lấy mục tiêu xây dựng nước Việt Nam phồn vinh, hạnh phúc; trở thành nước phát triển, có thu nhập cao vào năm 2045 làm điểm tương đồng để động viên, cổ vũ Nhân dân đồng lòng, chung sức thực hiện vì tương lai của dân tộc, hạnh phúc của Nhân dân.

Quan điểm thứ ba: Đề cao phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa và “vận động tất cả lực lượng của mỗi một người dân”. Đại đoàn kết toàn dân tộc phải gắn với phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, quyền làm chủ của Nhân dân trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Giải quyết tốt quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng, nâng cao cuộc sống của Nhân dân; bảo đảm công bằng, bình đẳng giữa các dân tộc, các giai tầng xã hội và của mỗi người dân trong tiếp cận cơ hội, đóng góp cho đất nước và thụ hưởng thành quả phát triển.

Quan điểm thứ tư: Vai trò của cả hệ thống chính trị về tiếp tục phát huy truyền thống, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc. Đại đoàn kết là sự nghiệp của toàn dân, là trách nhiệm của Đảng và cả hệ thống chính trị. Đoàn kết trong Đảng là hạt nhân, là cơ sở vững chắc để xây dựng đoàn kết trong hệ thống chính trị, đại đoàn kết toàn dân tộc và đoàn kết quốc tế. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội giữ vai trò nòng cốt chính trị trong tập hợp, đoàn kết, phát huy mạnh mẽ mọi nguồn lực, tiềm năng, sức sáng tạo của Nhân dân cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Mục tiêu: Tiếp tục phát huy truyền thống, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, tăng cường đồng thuận xã hội, khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc, niềm tin, khát vọng cống hiến và xây dựng đất nước ngày càng phồn vinh, hạnh phúc; góp phần thực hiện thành công mục tiêu đến năm 2030 Việt Nam là nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao, đến năm 2045 trở thành nước phát triển, thu nhập cao theo định hướng xã hội chủ nghĩa

Thứ tư, cần làm rõ 7 nhóm giải pháp trong thực hiện phát huy truyền thống, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng đất nước ta ngày càng phồn vinh, hạnh phúc

Một là, Nâng cao nhận thức, trách nhiệm của các cấp uỷ, tổ chức đảng, hệ thống chính trị và Nhân dân về vị trí, tầm quan trọng của việc phát huy truyền thống, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc; Hai là, Hoàn thiện chủ trương, chính sách về đại đoàn kết toàn dân tộc, khơi dậy ý chí, khát vọng phát triển đất nước; Ba là, Xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong sạch, vững mạnh; tăng cường đoàn kết trong Đảng, giữ vững vai trò hạt nhân lãnh đạo của Đảng trong xây dựng và phát huy truyền thống, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc; Bốn là, Nâng cao vai trò, hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Nhà nước trong phát huy truyền thống, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc; Năm là, Phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, tiềm năng và sức sáng tạo của Nhân dân; Sáu là, Đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội; đẩy mạnh công tác vận động quần chúng, huy động mọi nguồn lực cho phát triển đất nước; Bảy là, Tổ chức các cuộc vận động, phong trào thi đua yêu nước thiết thực, hiệu quả

Thứ năm, đối với những nội dung nghiên cứu, phân tích làm rõ ở trên, người giảng viên khi vận dụng vào nội dung bài giảng cần phải tập trung làm rõ những đánh giá của Nghị quyết số 43-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII qua 20 năm thực hiện Nghị quyết số 23-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương khóa IX đến hiện nay. Từ đó, liên hệ đối với tỉnh Đồng Tháp về những kết quả đạt được và một số hạn chế  trong quá trình triển khai thực hiện phát huy truyền thống, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng đất nước ta nói chung và tỉnh nói riêng, lý giải những vấn đề chung của cả nước và tính đặc thù riêng của tỉnh Đồng Tháp.

Giảng viên cần liên hệ những nhiệm vụ, giải pháp tiếp tục phát huy truyền thống, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng tỉnh Đồng Tháp ngày càng phát triển đối với các giải pháp chung trong việc tiếp tục phát huy truyền thống, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng đất nước ta ngày càng phồn vinh, hạnh phúc. Đồng thời gợi mở cho học viên vận dụng đối với bản thân trong thực hiện Nghị quyết số 43-NQ/TW.

III. Kết luận

Việc nghiên cứu, vận dụng đưa những nội dung của Nghị quyết số 43-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII trong giảng dạy là hết sức cần thiết, có vai trò quan trọng đối với giảng viên truyền tải đến học viên góp phần nâng cao nhận thức, tinh thần trách nhiệm trong việc học tập và thực hiện nhiệm vụ chính trị tại cơ quan đơn vị. Đồng thời, qua việc đưa nội dụng Nghị quyết số 43-NQ/TW vào trong học tập, học viên có những đề xuất, tham mưu với cán bộ lãnh đạo, quản lý trong việc phát huy vai trò của Nhân dân và xây dựng khối đại đoàn kết tại cơ quan, địa phương, đơn vị để hoàn thành tốt nhiệm vụ chính trị được giao.

Tài liệu tham khảo

  1. Nghị quyết số 43-NQ/TW, ngày 24/11/2023, Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về Tiếp tục phát huy truyền thống, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng đất nước ta ngày càng phồn vinh, hạnh phúc.
  2. Đề cương bài giảng Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8, khoá XIII https://lyluanchinhtri.dcs.vn/courses/de-cuong-bai-giang-nghi-quyet-trung-uong-8-khoa-xiii-656dae69f4a74d2e3c9275d6?courseContentId=656dae81d989d3cfdb5be8f6&courseContentType=course-content&activeTab=course-content
  3. Cổng thông tin điện tử Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn, https://www.mard.gov.vn/Pages/ty-le-ho-ngheo-theo-chuan-ngheo-da-chieu-nam-2023-con-2-93-.aspx
  4. Báo Nhân dân điện tử, https://nhandan.vn/quy-mo-nen-kinh-te-viet-nam-dat-khoang-430-ty-usd-post790174.html

[1] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 13, tr. 24

[2] Tạp chí Xây dựng Đảng: “Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng chủ trì họp báo sau Đại hội XIII của Đảng”, ngày 1-2-2021