Publicador de contenidos

null Những thành tựu kinh tế-xã hội đáng tự hào của nước ta trong năm 2024

Chi tiết bài viết Bài viết

Những thành tựu kinh tế-xã hội đáng tự hào của nước ta trong năm 2024

                                                  Ths. Mai Quang Khả, Phòng QLĐT và NCKH

Mở đầu

Năm 2024, tình hình thế giới tiếp tục diễn biến phức tạp, khó lường (cạnh tranh chiến lược gay gắt; xung đột leo thang ở Ukraina, Trung Đông và căng thẳng gia tăng ở bán đảo Triều Tiên; các chuỗi cung ứng toàn cầu đứt gãy cục bộ làm giá xăng dầu, hàng hóa cơ bản, cước vận tải biến động mạnh; kinh tế, thương mại phục hồi chậm, thiếu vững chắc; tổng cầu, đầu tư toàn cầu sụt giảm; tỷ giá, lãi suất biến động khó lường; thiên tai, biến đổi khí hậu, an ninh năng lượng, lương thực, an ninh mạng diễn biến phức tạp). Ở trong nước, chúng ta vừa phản ứng linh hoạt, hiệu quả trước những biến động bên ngoài; vừa phải khắc phục những hạn chế, bất cập nội tại kéo dài nhiều nhiệm kỳ và phải dành nhiều thời gian, nguồn lực giải quyết những

vấn đề đột xuất, phát sinh, nhất là chính sách tiền tệ, tài khóa, ứng phó, khắc phục thiên tai gây hậu quả nặng nề, kéo dài tại nhiều địa phương.

Nhờ sự vào cuộc quyết liệt của cả hệ thống chính trị, cộng đồng doanh nghiệp và Nhân dân cả nước dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, sự điều hành hiệu quả của Chính phủ; tình hình kinh tế-xã hội (KTXH) tiếp tục xu hướng phục hồi tích cực, tháng sau tốt hơn tháng trước, tăng trưởng quý sau cao hơn quý trước; nhìn chung tình hình KTXH 11 tháng đầu năm 2024 đạt nhiều kết quả quan trọng, tốt hơn cùng kỳ trên hầu hết các lĩnh vực. Dự kiến 15/15 chỉ tiêu chủ yếu đạt và vượt kế hoạch, nhất là mục tiêu tăng trưởng.

Những thành tựu về kinh tế-xã hội đáng tự hào

Về kinh tế và 3 đột phá chiến lược

- Tăng trưởng cả năm ước đạt trên 7% (thuộc nhóm số ít các nước có tốc độ tăng trưởng cao trong khu vực và thế giới); kinh tế vĩ mô tiếp tục ổn định, lạm phát được kiểm soát dưới 4%, các cân đối lớn được bảo đảm và có thặng dư cao; riêng lương thực, tính chung 11 tháng, xuất khẩu gạo đạt trên 8,5 triệu tấn, kim ngạch trên 5,3 tỷ USD, tăng lần lượt 10,6% và 22,4% so với cùng kỳ. Giá trị thương hiệu quốc gia Việt Nam năm 2024 đạt 507 tỷ USD, xếp thứ 32/193, tăng 1 bậc so với năm 2023.

- Tính đến cuối tháng 11, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu ước đạt khoảng 715 tỷ USD, tăng 15,3%, xuất siêu trên 23 tỷ USD; ước cả năm đạt 807,7 tỷ USD, cao nhất từ trước đến nay. Thu NSNN ước cả năm vượt trên 10% dự toán (thu NSNN 11 tháng bằng 106,7% dự toán và tăng 16,4% so với cùng kỳ); bội chi NSNN, nợ công, nợ Chính phủ, nợ nước ngoài quốc gia được kiểm soát tốt, thấp hơn giới hạn cho phép.

- Đầu tư phát triển đạt kết quả tích cực. Đầu tư công có trọng tâm, trọng điểm, hiệu quả được nâng lên (Nhiều công trình giao thông quan trọng, quy mô lớn được đầu tư, nâng cấp, đảm bảo kết nối giữa các trung tâm kinh tế lớn, các vùng miền trong cả nước và giao thương quốc tế). Thu hút FDI là điểm sáng và nằm trong nhóm 15 nước đang phát triển thu hút FDI lớn nhất thế giới; trong 11 tháng, thu hút FDI đạt 31 tỷ USD, vốn FDI thực hiện đạt 20,4 tỷ USD, tăng 7%, cao nhất trong nhiều năm qua.

- Phát triển doanh nghiệp tiếp tục xu hướng tích cực; nhìn chung các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước hoạt động sản xuất kinh doanh hiệu quả, phát huy vai trò nòng cốt, chủ lực, chủ đạo trong nhiều lĩnh vực, ngành kinh tế quan trọng và có khả năng cạnh tranh khu vực và quốc tế.

- Cơ cấu nền kinh tế chuyển dịch tích cực (kinh tế số, kinh tế xanh đóng vai trò ngày càng quan trọng. Các lĩnh vực chủ yếu đều tăng trưởng. Nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng khá. Công nghiệp phục hồi tích cực, là động lực quan trọng, dẫn dắt tăng trưởng. Dịch vụ phục hồi tốt; thương mại điện tử, thanh toán không dùng tiền mặt, du lịch phát triển mạnh).

- Tập trung thực hiện 3 đột phá chiến lược (về thể chế, hạ tầng, nguồn nhân lực) và đạt được nhiều kết quả quan trọng:

+ Công tác xây dựng, hoàn thiện pháp luật được chỉ đạo quyết liệt với tư duy đổi mới trong cách nghĩ, cách làm, thông thoáng hơn, đúng thẩm quyền hơn; đồng thời tập trung rà soát, tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, điểm nghẽn từ thực tiễn.

+ Hoàn thành Dự án 500kV mạch 3 Quảng Bình - Hưng Yên sau hơn 6 tháng thi công thần tốc và tích cực triển khai nhiều dự án, công trình năng lượng trọng điểm như khai thác mỏ khí Lô B, trung tâm nhiệt điện Ô Môn…; hoàn thành một số đoạn đường bộ cao tốc, nâng tổng chiều dài lên 2.021 km. Hạ tầng số, hạ tầng năng lượng được tháo gỡ về thể chế và đầu tư.

+ Đẩy mạnh đào tạo, phát triển nguồn nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao (đã ban hành và đang tích cực triển khai Đề án phát triển nguồn nhân lực bán dẫn đến năm 2030).

Về văn hóa, xã hội

- Các lĩnh vực văn hóa, xã hội đạt kết quả rõ nét (tiếp tục sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện thể chế về văn hóa, xã hội; nhiều giá trị văn hóa truyền thống và di sản văn hóa được kế thừa, bảo tồn và phát huy; tổ chức tốt các ngày lễ lớn).

- An sinh xã hội được tập trung bảo đảm; đời sống người dân được cải thiện. Tăng 30% lương cơ sở, tăng 6% lương tối thiểu vùng hằng năm cho người lao động và điều chỉnh lương hưu, bảo hiểm xã hội, trợ cấp ưu đãi người có công, trợ cấp xã hội từ ngày 01/7/2024 (đã tích lũy trên 700 nghìn tỷ đồng để thực hiện chính sách tiền lương mới cho năm 2024 và các năm sau). Tỷ lệ hộ nghèo giảm còn 1,93%. Theo xếp hạng của Liên hợp quốc, chỉ số hạnh phúc năm 2024 của Việt Nam tăng 11 bậc, xếp thứ 54/143. Tập trung hỗ trợ người dân khắc phục hậu quả cơn bão số 3; tinh thần “tương thân, tương ái”, “tình dân tộc, nghĩa đồng bào” tỏa sáng mạnh mẽ.

- Chất lượng khám, chữa bệnh từng bước được nâng lên; tỷ lệ bao phủ bảo hiểm y tế tăng từ 90,9% năm 2020 lên 94,1% năm 2024. Chất lượng giáo dục các cấp được cải thiện. Ứng dụng khoa học công nghệ được tăng cường; hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo được hình thành và phát triển, xếp thứ 56/119, tăng 02 bậc so với năm 2023; chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu của Việt Nam tăng 4 bậc so với năm 2022, xếp thứ 44/132.

- Chất lượng nguồn nhân lực được nâng lên; lực lượng lao động, tỷ lệ lao động có việc làm tăng; thu nhập bình quân người lao động đạt khoảng 7,6 triệu đồng, tăng 7,4% so với cùng kỳ năm 2023.

- Các chính sách dân tộc, tôn giáo, tín ngưỡng được ưu tiên, chú trọng; công tác chăm sóc, bảo vệ trẻ em, giáo dục thanh, thiếu niên, phát huy vai trò người cao tuổi, bình đẳng giới, vì sự tiến bộ của phụ nữ, thông tin truyền thông... được tăng cường. Chỉ số phát triển bền vững (SDGs) của Việt Nam năm 2024 xếp thứ 54/166, tăng 1 bậc so với năm 2023.

Kết luận

Năm 2024 đã khép lại với những thành tựu KTXH rất đáng tự hào và trân trọng, tạo nên bệ đỡ quan trọng cho đất nước phát triển cho năm 2025 và giai đoạn tiếp theo. Năm 2025 có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, kỷ niệm 95 năm thành lập Đảng, 50 năm giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, 135 năm ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh, 80 năm thành lập Nước và là năm tiến hành Đại hội Đảng các cấp, tiến tới Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIV với kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, với quyết tâm cao của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân, chắc chắn rằng tình hình KTXH nước ta sẽ đạt được nhiều thành tựu to lớn, vững chắc hơn./.

Tài liệu tham khảo:

Tài liệu phục vụ Hội nghị toàn quốc quán triệt, tổng kết Nghị quyết số 18-NQ/TW, ngày 25/10/2017 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII) tại Hà Nội, ngày 01 tháng 12 năm 2024.