Xuất bản thông tin

null Từ điểm tựa văn hóa trong hành trình tìm đường cứu nước đã đưa Nguyễn Ái Quốc trở thành “Danh nhân văn hóa”

Chi tiết bài viết Tin tức - Sự kiện

Từ điểm tựa văn hóa trong hành trình tìm đường cứu nước đã đưa Nguyễn Ái Quốc trở thành “Danh nhân văn hóa”

                                                                  TS. Nguyễn Quốc Trung

                                                                             ThS. Bùi Tuấn Đạt

Tóm tắt, Văn hóa kết nối các dân tộc, kết nối nhân loại, văn hóa giúp mọi người trên thế giới vượt qua được sự ngăn cách bởi tiếng nói, bởi màu da, bởi chủng tộc; văn hóa giúp con người chiến thắng được những ham muốn vật chất tầm thường, những lợi ích thuần túy để xích lại gần nhau, cùng nhau vun đắp cho một tương lai mà ở đó sự “Tự do - Bình đẳng - Bác ái” ngự trị trong tư tưởng và hành động mỗi con người. Nguyễn Ái Quốc-Hồ Chí Minh trong quá trình tìm đường cứu nước, Người đã đi khắp thế giới để tìm hiểu, để lựa chọn các giá trị tích cực, tiến bộ, để kết nối văn hóa, và tất cả đều đó đã làm một con người vĩ đại -  Hồ Chí Minh “nền văn hóa tương lai”

Từ khóa: Hồ Chí Minh; giá trị tiến bộ; giá trị thời đại

Năm 1923, nhà báo, nhà thơ Xô viết Osip Mandelstam đã viết về Hồ Chí Minh: “Từ Nguyễn Ái Quốc đã tỏa ra một thứ văn hóa, không phải văn hóa Âu Châu, mà có lẽ là một nền văn hóa tương lai”[1]. Trong cả cuộc đời hoạt động của mình, Nguyễn Ái Quốc xuất phát từ nền văn hóa Việt Nam, văn hóa phương Đông, người đi khắp thế giới kết nối văn hóa, từ đó Người gặp được chủ nghĩa Mác-Lênin - chấp cánh cho các giá trị văn hóa và quay trở lại Người xác lập và hiện thực hóa các giá trị trên cơ sở thực tiễn Việt Nam - các giá trị mang tầm thời đại, những giá trị làm nên sự trường tồn và thúc đẩy sự tiến bộ.

1/- Hành trình đi tìm các giá trị tiến bộ  của Nguyên Ái Quốc

Trước khi ra quyết định ra đi tìm đường cứu, Nguyễn Tất Thành đã được tiếp nhận những giá trị tốt đẹp từ Nho giáo-Nho giáo đã được Việt hóa, được chắc lọc qua lăng kính của văn hóa dân tộc Việt Nam. Đồng thời, Người còn được tiếp cận những giá trị tốt đẹp từ truyền thống mấy nghìn năm của dân tộc, truyền thống tốt đẹp của quê hương, của gia đình đã hun đúc và kết tinh trong Người một hoài bảo lớn: làm thế nào để cứu đất nước, cứu dân tộc thoát khỏi cảnh nô lệ lầm than. Nhuyễn Tất Thành đã từng ngưỡng mộ những người con quê hương xứ Nghệ đã từng nuôi chí lớn ra nước ngoài học và hoạt động yêu nước, như Nguyễn Trường Tộ [2], Đặng Thúc Hứa [3] và Phan Bội Châu,…Nguyễn Tất Thành đã ca ngợi cụ Phan như Bậc anh hùng, vị thiên sứ, đấng xả thân vì độc lập, được hai mươi triệu con người trong vòng nô lệ tôn sùng”[4], nhưng Nguyễn Tất Thành đã từ chối tham gia Duy Tân hội và đi theo con đường của Phan Bội Châu.

Từ rất sớm, Nguyễn Tất Thành đã tiếp xúc với những câu: "Tự do - Bình đẳng - Bác ái", "Đoàn kết là sức mạnh", "Nhân dân là sức mạnh không ai chế ngự nổi" v.v. Sau này Người kể lại: “Và từ thủa ấy, tôi rất muốn làm quen với nền văn minh Pháp, muốn tìm xem những gì ẩn giấu đằng sau những từ ấy" [5]Nguyễn Tất Thành đã nảy ra một ý tưởng táo bạo là sang tận nơi "xem nước Pháp và các nước khác. Sau khi xem xét họ làm thế nào, tôi sẽ trở về giúp đồng bào chúng ta" [6]. Ở đây, có thể thấy được, ngày từ đầu, Nguyễn Tất Thành đã có ấn tượng sâu sắc về văn hóa, văn minh của nước Pháp, và Người muốn tìm hiểu xem những gì nghe được sẽ  được biểu hiện như thế nào trên thực tế ở nước Pháp.

Khi đến được nước Pháp, Nguyễn Tất Thành đã nhanh chóng nhận ra sự khác biệt giữa những người Pháp ở nước Pháp và những “tên thực dân” Pháp ở các nước thuộc địa. Chính vì thế, trong hoàn cảnh chiến tranh hay hòa bình, Hồ Chí Minh vẫn thể hiện rõ quan điểm điểm của mình về một tình hữu nghị tốt đẹp giữa hai dân tộc. Chúng tôi, Chính phủ và dân chúng Việt Nam nhất định đấu tranh giành độc lập và thống nhất toàn quốc, nhưng sẵn sàng hợp tác thân thiện với dân chúng Pháp”; “Chúng tôi yêu chuộng các bạn và muốn thành thực với các bạn trong khối liên hiệp Pháp vì chúng ta có chung một lý tưởng: tự do - bình đẳng - độc lập" [7]. Tự do, bình đẳng, độc lập đó không chỉ là mong muốn của Hồ Chí Minh mà là “khát vọng” của tất cả các dân tộc trên thế giới, đó là giá trị của thời đại.

Trên con đường đi tìm các giá trị tiến bộ, từ nước Pháp, Nguyễn Tất Thành  làm việc trên những con tàu viễn dương của Pháp đi khắp thế giới, đi vào cuộc sống của người dân lao động, đi vào cuộc sống của người dân châu Phi, Người nhận ra những người da đen, những người nô lệ là một thứ hàng hóa rẻ mạt và khi họ chết đi thì “người ta ném người da đen xuống biển để cho nhẹ tàu” [8], do đó, Người đi đến nhận định “dù màu da có khác nhau, trên đời này chỉ có hai giống người: giống người bóc lột và giống người bị bóc lột” [9] và để giải phóng những người bị bóc lột, để hướng đến một thế giới tốt đẹp nhất thiết phải xây dựng tình đoàn kết quốc tế, đoàn kết giữa các dân tộc thuộc địa, giữa thuộc địa và chính quốc, giữa phương Đông và phương Tây.

Năm 1912, Nguyễn Tất Thành đã đến với nước Mỹ, ở vào thời điểm hiện tại, nước Mỹ được xem là “thiên đường tự do”, “thế giới tự do”. Tuy nhiên, đằng sau vẻ đẹp rực rỡ của tượng Nữ thần Tự do, vẻ đẹp tráng lệ của thành phố NewYord, sự “hào nhoáng” bên ngoài của đồng đô-la, của vàng thì sự thật lại hoàn toàn khác.  Nhà sử học Mỹ Josephine Stenson [10], khi tìm lại quyển bút tích ghi lại cảm nhận của các vị khách khi họ đến tham quan và chiêm ngưỡng biểu tượng của thành phố, tất cả đều mô tả sự hòa nhoáng của bức tượng, duy chỉ có Nguyễn Tất Thành, Người chỉ nhìn dưới chân tượng và ghi: "Ánh sáng trên đầu thần Tự Do tỏa rộng khắp trời xanh, còn dưới chân tượng thần Tự Do thì người da đen đang bị chà đạp; số phận người phụ nữ bị chà đạp. Bao giờ người da đen được bình đẳng với người da trắng? Bao giờ có sự bình đẳng giữa các dân tộc? Và bao giờ người phụ nữ được bình đẳng với nam giới?" [11]. Những cảm nhận của Nguyễn Tất Thành là những giá trị rất bình dị, nhưng phải mất hơn nửa thế kỷ sau đó, thế giới mới thấy được sự cần thiết phải nhận thức và thiết lập sự nhận thức chung về những giá trị cho sự phát triển của nhân loại.

Quá trình đi khắp thế giới, Nguyễn Tất Thành đã có thời gian đến, nghiên cứu, tìm hiểu và sinh sống tại nước Anh. Người đã từng làm việc trong khách sạn Carlton, tại đây đã từng có một câu chuyện thú vị và đầy ý nghĩa về những hành động Nguyễn Tất Thành. Ông Len Aldis [12] kể “Khi mới tới Carlton, ông Hồ chỉ được giao nhiệm vụ dọn dẹp và rửa bát đĩa. Câu chuyện về việc ông Hồ cất những món ăn thừa để chuyển cho những người nghèo, người ăn xin ngoài đường mà thế hệ trẻ như bạn được nghe chính là bắt nguồn từ đây. Cảm kích trước hành động của ông Hồ, vị đầu bếp huyền thoại người Pháp Escosffier của khách sạn đã chuyển ông Hồ lên khu vực làm bánh và “truyền nghề” cho ông. Nhưng điều đó cũng không thể giữ ông Hồ ở lại xứ sương mù này bởi chất chứa trong ông là hoài bảo giải phóng dân tộc...”[13]. Đằng sau câu chuyện của ông Len kể về Bác, mọi người đều có thể nhận ra rằng, “ông Hồ” không chỉ đơn thuần là muốn giúp đỡ những người vô gia cư, những người đói khổ, mà Người còn muốn hướng đến một xã hội thật sự công bằng, bình đẳng.

Trong hành trình tìm đường cứu nước, Người đã nghiên cứu về các cuộc cách mạng vĩ đại (cách mạng tư sản Mỹ, cách mạng tư sản Pháp, cách mạng tư sản Anh), đã tìm hiểu về đất nước, về nền văn hóa của nước Mỹ, nước Pháp, nước Anh, đó là những đất nước phát triển, đó là những nền văn hóa phát triển,…nhưng Nguyễn Tất Thành vì sao đã không lựa chọn mô hình đó đó cho sự phát triển của Việt Nam. Bằng những cứ liệu lịch sử và sự phân tích sâu sắc, Người đã chỉ rõ cho nhân dân Việt Nam cũng như nhân dân các nước thuộc địa thấy rằng cuộc đấu tranh giải phóng trong thời đại mới không thể đi theo con đường cách mạng tư sản, vì đó là “cách mệnh không đến nơi, tiếng là cộng hòa và dân chủ, kỳ thực trong thì nó tước lục công nông, ngoài thì nó áp bức thuộc địa”[14]. Đúng là các nước Anh, Pháp, Mỹ, là các nước phát triển, có văn hóa phát triển cao, nhưng nó không mang đến sự công bằng và bình đẳng cho tất cả mọi người, nó không thể hòa hợp với hoài bảo và kỳ vọng mà Nguyễn Tất Thành đang chất chứa trong lòng khi quyết tâm ra đi tìm đường cứu nước.

Những giá trị tiến bộ mà Nguyễn Tất Thành đã được truyền thụ từ truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam, từ quá trình đi khắp thế giới tìm kiếm, khảo nghiệm, tiếp nhận đã giúp Người tiệm cận đến chủ nghĩa Mác-Lênin. Khi nghiên cứu chủ nghĩa Mác-Lênin, Nguyễn Ái Quốc đã tìm thấy được chân lý thời đại, tìm thấy được con đường mà thông qua đó các dân tộc trên thế giới có thể cùng chung sống hòa bình, có thể xích lại gần nhau và bằng bản sắc riêng của các dân tộc, tất cả góp phần thúc đẩy sự phát triển chung của nhân loại. Trong tác phẩm “Con đường dẫn tôi đến chủ nghĩa Lênin”, Người viết: “Trong Luận cương ấy, có những chữ chính trị khó hiểu. Nhưng cứ đọc đi đọc lại nhiều lần, cuối cùng tôi cũng hiểu được phần chính. Luận cương của Lênin làm cho tôi rất cảm động, phấn khởi, sáng tỏ, tin tưởng biết bao! Tôi vui mừng đến phát khóc lên. Ngồi một mình trong buồng mà tôi nói to lên như đang nói trước quần chúng đông đảo: "Hỡi đồng bào bị đọa đày đau khổ! Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta!". Từ đó tôi hoàn toàn tin theo Lênin, tin theo Quốc tế thứ ba” [15]. Ở vào thời điểm hiện tại và ở môi trường hiện tại, Nguyễn Ái Quốc có điều kiện tiếp xúc với nhiều học thuyết tiến bộ trên thế giới, nhưng Người chỉ tin vào Chủ nghĩa Lênin [16] vì bản thân học thuyết Mác-Lênin mang trong mình các giá trị tiến bộ đương đại và đặt nền móng cho sự hình thành các giá trị thời đại trong tương lai, Người viết: “Chỉ có chủ nghĩa cộng sản mới cứu nhân loại, đem lại cho mọi người không phân biệt chủng tộc và nguồn gốc sự tự do, bình đẳng, bác ái, đoàn kết, ấm no trên quả đất, việc làm cho mọi người và vì mọi người, niềm vui, hòa bình, hạnh phúc, nói tóm lại là nền cộng hoà thế giới chân chính, xóa bỏ những biên giới tư bản chủ nghĩa cho đến nay chỉ là những vách tường dài ngăn cản những người lao động trên thế giới hiểu nhau và yêu thương nhau. Tất cả mọi người hãy đứng lên quanh lá cờ đỏ để chinh phục thế giới” [17]

2/- Nguyễn Ái Quốc nghiên cứu, học tập, vận dụng và phát triển sáng tạo Chủ nghĩa Mác-Lênin trong điều kiện mới

Sau khi tìm thấy được chủ nghĩa Mác-Lênin, nhận thức được chân lý của thời đại, Nguyễn Ái Quốc tiếp tục nghiên cứu, học tập và vận dụng vào điều kiện cụ thể của Việt Nam. Do trong quá trình đi khắp thế giới, Nguyễn Ái Quốc đã có điều kiện tiếp cận và tiếp nhận các giá trị tốt đẹp của thời đại, nên khi nghiên cứu, vận dụng chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện Việt Nam, Nguyễn Ái Quốc đã không áp dụng một cách rập khuôn, máy móc mà có sự sáng tạo phù hợp với điều kiện mới.

Trong “Báo cáo về Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Nam Kỳ” [18], Nguyễn Ái Quốc đã viết: “Dù sao thì cũng không thể cấm bổ sung “cơ sở lịch sử” của chủ nghĩa Mác bằng cách đưa thêm vào đó những tư liệu mà Mác ở thời mình không thể có được. Mác đã xây dựng học thuyết của mình trên một triết lý nhất định của lịch sử, nhưng lịch sử nào? Lịch sử châu Âu. Mà châu Âu là gì? Đó chưa phải là toàn thể nhân loại” [19] Trong cái tổng thể bao giờ cũng có yếu tố đặc thù và đây chính là sự bổ sung, phát triển quan trọng để hiện thực hóa chủ nghĩa Mác-Lênin trên thực tế, là sự nhận thức đúng đắn “tính mở” của học thuyết Mác và là sự thể hiện bản chất tốt đẹp của một người cách mạng chân chính. Cách mạng chỉ trở thành giá trị khi đó là sự sáng tạo, là sự thúc đẩy sự tiến bộ,..nó hoàn toàn trái ngược với hành động cách mạng mà mục đích cuối cùng là sự thể hiện quyền lực của cá nhân, lợi ích của một nhóm người, hay là những hành động cực đoan, …kéo lùi sự phát triển của lịch sử.

Trong nhiều quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, khi vận dụng, Nguyễn Ái Quốc đều thể hiện sự phát triển sáng tạo, cụ thể: khi viết “Tuyên ngôn Đảng cộng sản”, C.Mác, Ăngghen đã đưa ra khẩu hiệu “Vô sản tất cả các nước đoàn kết lại” [20], đến giai đoạn Lênin, được bổ sung thành “Vô sản tất cả các nước và các dân tộc bị áp bức đoàn kết lại”, nhưng khi vận dụng vào điều kiện cụ thể của Việt Nam, Nguyễn Ái Quốc đã bổ sung thành: “Lao động tất cả các nước, đoàn kết lại!” [21], ở đây đã thể hiện rõ sự phát triển trong biên độ tập hợp lực lượng cách mạng của Nguyễn Ái Quốc, rộng hơn, đa dạng hơn,…Trong quá trình vận dụng chủ nghĩa Mác-Lênin, Nguyễn Ái Quốc không chỉ là bổ sung hay nêu khẩu hiệu mà bằng những hành động thực tiễn, khi thành lập Đảng cộng sản Việt Nam, Nguyễn Ái Quốc đã bổ sung phần thực tiễn Việt Nam vào qui luật thành lập Đảng, đây là tiền đề quan trọng để Đảng tập hợp được sức mạnh của cả dân tộc. Hồ Chí Minh đã từng nói: Đảng Lao động Việt Nam là Đảng của dân tộc Việt Nam [22], Đảng của dân tộc ở đây là nói đến tính chất lợi ích, tập hợp lực lượng, đoàn kết lực lượng,…chứ không phải nói đến bản chất của Đảng.

Phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin là phải tạo ra được môi trường hòa bình, đoàn kết, tạo điều kiện để con người (với sự đa dạng về sắc tộc, văn hóa,…) xích lại gần nhau, cùng thúc đẩy sự tiến bộ. Trong thời của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kết nối, đã tạo ra được một mặt trận đoàn kết rộng khắp chưa từng có, không chỉ là sự đoàn kết thống nhất của cả dân tộc, mà còn là sự kết nối với hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa, các nước dân chủ tiến bộ và cả nhân dân các nước đế quốc đang xâm lược Việt Nam; bất cứ nơi nào Hồ Chí Minh đến trên khắp thế giới này, thì ở đó những vấn đề về xung đột lợi ích dân tộc, về sự khác biệt dân tộc,… bị đẩy lùi bởi sự ngự trị vĩnh hằng của tình yêu thương, của lòng bác ái, sự tôn trọng và của sự giá trị văn hóa. Năm 1958, khi Chủ tịch Hồ Chí Minh đến thăm Ấn Độ, Thủ tướng Ấn Độ Nehru đã gọi Chủ tịch Hồ Chí Minh là Một vị lãnh tụ xuất sắc đồng thời là một chiến sỹ vĩ đại cho tự do", ông nói: Chúng ta được tiếp đón một con người, mà người đó là phần lịch sử của châu Á. Ngoài phần gặp gỡ một con người vĩ đại, chúng ta đã gặp một mảng lịch sử. Do đó chúng ta không chỉ được nâng tầm tư tưởng, suy nghĩ mà còn được lớn lên ở bên Người. Được gặp Người chúng ta trở nên tốt đẹp hơn…Trong thế giới đầy biến động, xung đột và phân ly, thật sung sướng khi Người đến mang lòng tốt của con người và tình bạn, tình thân ái đã vượt lên tất cả" [23]. Giá trị thật sự của chủ nghĩa Mác-Lênin là ở chỗ đó, là tình hữu ái quốc tế trong sáng, tất cả mọi thứ rồi sẽ qua đi, cái duy nhất còn tồn tại mãi mãi với thời gian là những giá trị kết nối con người mà Hồ Chí Minh là hiện thân tiêu biểu.

3/- Nguyễn Ái Quốc xác lập và hiện thực hóa các giá trị thời đại qua thực tiễn xã hội Việt Nam

Nhận thức được chân lý thời đại, nhận thức được các giá trị tiến bộ của nhân loại, Nguyễn Ái Quốc, trong quá trình chuẩn bị thành lập Đảng, Người đã truyền thụ những gì mà người nhận thức được từ chủ nghĩa Mác-Lênin, những giá trị tiến bộ mà Người đã tiếp nhân được đi khắp thế giới,… cho những người cách mạng Việt Nam, chính vì thế, khi thành lập Đảng cộng sản Việt Nam, Đảng và những người cách mạng Việt Nam đã làm một cuộc cách mạng vĩ đại-đó là cuộc cách mạng lợi ích [24]. Một Đảng thật sự cách mạng, thật sự vĩ đại khi đảng đó vượt qua được những vấn đề lợi ích thuần túy của một đảng chính trị. Kể từ khi thành lập và trong toàn bộ tiến trình cách mạng, Đảng cộng sản Việt Nam không có bất cứ lợi ích nào ngoài độc lập cho dân tộc Việt Nam, tự do cho nhân dân Việt Nam và tiến bộ cho mọi người trên thế giới.

Trong “Tuyên ngôn độc lập” được Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc vào ngày 2/9/1945, tại quảng trường Ba Đình, Hà Nội, ngay trong đoạn đầu tiên khi trích “Tuyên ngôn độc lập” (1976) của Hợp Chủng quốc Hoa Kỳ (Mỹ), Hồ Chí Minh đã dùng cụm từ "Tất cả mọi người đều sinh ra bình đẳng…” [25] để thay thế cho những từ có ý nghĩa phân biệt chủng tộc và giới tính sâu sắc ở nước Mỹ, để chỉ rõ giá trị và lương tri thời đại mà cuộc cách mạng Việt Nam, dân tộc Việt Nam hướng đến.

Sau khi giành được chính quyền cách mạng, Đảng thông qua Nhà Nước-công cụ quyền lực của Đảng, đại điện cho ý chí và nguyện vọng của cả dân tộc Việt Nam lựa chọn và xác lập mục tiêu cơ bản của cách mạng Việt Nam: Độc lập-Tự do-Hạnh phúc.

Trong Sắc lệnh số 50 do Chủ tịch Hồ Chí Minh ký ngày 9 tháng 10 năm 1945 có ghi ngay trên đầu văn bản: Độc lập-Tự do-Hạnh phúc, đó không chỉ là tiêu đề mà đó còn là mục tiêu của dân tộc Việt Nam trong toàn bộ tiến trình cách mạng. Với khát vọng: Không có gì quí hơn độc lập, tự do!, ngay trong khẩu hiệu này đã thể hiện rõ sự hóa thân “sâu sắc” của giai cấp vào dân tộc, nâng tầm dân tộc và thúc đẩy dân tộc vùng lên mạnh mẽ, chiến thắng mọi áp bức, trở ngại để kết nối thế giới. Chính từ mục tiêu mang giá trị tiến bộ và mang tầm thời đại nên đã khơi dậy tinh thần yêu nước, ý chí quật cường, quyết tâm cao độ của cả dân tộc, giúp dân tộc Việt Nam đã làm nên những thắng lợi chấn động thế giới. Trong hai cuộc kháng chiến (chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược), không chỉ là thắng lợi cho dân tộc Việt Nam, mà đó còn là thắng lợi của lương tri, thắng lợi của chân lý, thắng lợi của giá trị tiến bộ. Trong những tác phẩm được viết bởi những người bên kia chuyến tuyến: Nhìn lại quá khứ-tấn thảm kịch và những bài học về Việt Nam” [26]; “Lịch sử một cuộc chiến tranh bẩn thỉu” [27],…đã thể hiện rất rõ giá trị của mục tiêu mà Việt Nam đã lựa chọn. Có lẽ nhận xét của David Halberstam, một nhà nghiên cứu người Mỹ đã nói lên tất cả: “Cụ Hồ Chí Minh chẳng những đã giải phóng đất nước mình, đã thay đổi chiều hướng của chế độ thuộc địa ở châu Á lẫn châu Phi mà Cụ còn làm được một điều đáng chú ý hơn: dùng tới văn hoá và tâm hồn kẻ địch để chiến thắng" [28].  

4/- Đảng cộng sản Việt Nam kế thừa, kiên định và thúc đẩy các giá trị tiến bộ trong sự nghiệp cách mạng

Sau khi đất nước được độc lập thống nhất, nhân dân Việt Nam hiểu rất rõ cái giá của chiến tranh và ý nghĩa của độc lập tự do, tuy nhiên, các thế lực thù địch không để cho Việt Nam có điều kiện và thời gian để xây dựng xã hội mới, họ liên kết, lôi kéo, tập hợp lực lượng tấn công gây hấng, hòng xâm lược Việt Nam, đặc biệt là việc gieo rắc tư tưởng hận thù dân tộc, tiến hành tàn sát, giết hại dã man người dân vô tội. Trước yêu cầu thực tiễn, nhân dân Việt Nam một lần nữa cầm vũ khí chiến đấu, bảo vệ độc lập dân tộc, bảo vệ người dân vô tội và thực hiện nhiệm vụ quốc tế cao cả [29], giúp nhân dân nước bạn Campuchia thoát khỏi nạn diệt chủng. Tuy trong giai đoạn đầu, Việt Nam gặp rất nhiều khó khăn, bị cộng đồng quốc tế bao vây từ mọi phía, nhưng dần dân, Việt Nam đã chứng minh cho cả thế giới thấy được nhiệm vụ và sự hy sinh cao cả của dân tộc Việt Nam; nhân dân Campuchia đã tin tưởng, đã ủng hộ, đã giúp đỡ và đã tự mình vươn lên gánh lấy sứ mệnh cao cả của dân tộc; cộng đồng quốc tế từ đó cũng từng bước ủng hộ Việt Nam và chuyển hướng tấn công vào lực lượng Pôn Pốt, một lần nữa những giá trị tích cực, tiến bộ, những giá trị thời đại mà Việt Nam đã lựa chọn, kiên quyết theo đuổi đã được thừa nhận rộng rãi và đã được chứng minh trên thực tiễn.

Trong giai đoạn hiện nay, với chính sách đối ngoại đa phương rộng mở và phù hợp, với những nguyên tắc cơ bản được xác định và được hiện thực hóa, vị thế Việt Nam trên trường quốc tế không ngừng được cải thiện, được nâng cao và được khẳng định. Trong nhiều năm qua, Việt Nam đã tham gia hầu hết các tổ chức quốc tế với quan điểm rõ ràng và trách nhiệm cao; Việt Nam ký hầu hết các nghị định thư của các tổ chức quốc tế với nhiều những giá trị tích cực, đóng góp chung cho sự phát triển của nhân loại; Việt Nam đã tích cực đóng góp và cử quân nhân tham gia lực lượng giữ gìn hòa bình của Liên hiệp quốc với nguyên tắc và trách nhiệm, nên đã được bàn bè quốc tế, tổ chức quốc tế hết sức tôn trọng, ca ngợi và đánh giá rất cao; Việt Nam cũng đã có nhiều đề xuất rất tích cực và đã được cộng đồng quốc tế công nhận và đánh giá cao các sáng kiến,… Đặc biệt, trong năm 2019, Việt Nam được bầu vào vị trí ủy viên không thường trực của Hội đồng Bảo an Liên hiệp quốc (nhiệm kỳ 2020-2021) với số phiếu tín nhiệm gần như tuyệt đối và trên thế giới chưa có quốc gia nào làm được như Việt Nam. Tất cả những điều đó đã khẳng định những giá trị tích cực, tiến bộ, những giá trị thời đại mà Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam đã kế thừa từ sự lựa chọn của Chủ tịch Hồ Chí Minh, kiên quyết theo duổi và hiện thực hóa nó trên thực tế. Cộng đồng quốc tế ủng hộ, nhân dân trong nước tin tưởng, điều đó tạo nên sự trường tồn.

Trong nhiều năm qua, hàng loạt thể chế chính trị đã bị thay đổi ở nhiều quốc gia - có một số thể chế chính tri thay đổi do những vấn đề nội bộ trong nước, những mâu thuẫn nội bộ không được nhận thức và được giải quyết một cách thấu đáo; có một số thể chế chính trị bị thay đổi do sự can thiệp trực tiếp từ bên ngoài, do sự khác biệt về ý thức hệ, hoặc do sự xung đột lợi ích quốc gia dân tộc,…trong tất cả mọi sự thay đổi đó có những nguyên nhân cơ bản của nó, nhưng dù nguyên nhân gì đi nữa thì cũng không thể phủ nhận một thực tế là những giá trị tích cực, tiến bộ, những giá trị thời đại không được các lực lượng lãnh đạo xã hội nhận thức và giải quyết thấu đáo.

Đảng cộng sản Việt Nam, Nhà nước Việt Nam, dân tộc Việt Nam ngay từ những ngày đầu vận động cách mạng đã xác định rõ ràng các giá trị tích cực, tiến bộ, những giá trị thời đại, kiên quyết theo duổi và quyết tâm hiện thực. Trong giai đoạn hiện nay, nhiều vấn đề phát sinh, như tham nhũng cá nhân, tham nhũng chính sách; lợi ích nhóm; chủ nghĩa hình thức trong nền hành chính quốc gia, trong mọi hoạt động xã hôi,…đang có những ảnh hướng nhất định và Đảng, Nhà nước đang quyết tâm thay đổi theo hướng tích cực, nhằm giữ vững niềm tin trong nhân dân và niềm tin của cộng đồng quốc tế. Sự trường tồn của một thể chế xã hội phụ thuộc vào việc nhận thức, xác định, theo đuổi, hiện thực hóa các giá trị tích cực, tiến bộ và giá trị thời đại.

 Kết luận: Nghị quyết của UNESCO khẳng định: “Chủ tịch Hồ Chí Minh một biểu tượng xuất sắc về sự tự khẳng định dân tộc, đã cống hiến trọn đời mình cho sự nghiệp giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam, góp phần vào cuộc đấu tranh chung của các dân tộc vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội” [30] và lời nhận xét của nhà báo, nhà thơ Xô viết Osip Mandelstam về Hồ Chí Minh: “Từ Nguyễn Ái Quốc đã tỏa ra một thứ văn hóa, không phải văn hóa Âu Châu, mà có lẽ là một nền văn hóa tương lai” đã khẳng định tất cả. Với xuất phát điểm từ những giá trị văn hóa tốt đẹp đã đưa Hồ Chí Minh đến với các nền văn hóa, tiếp cận, tiếp nhận, quá trình đó đã từng bước đưa Hồ Chí Minh tiệm cận đến với chủ nghĩa Mác-Lênin, hiện thực hóa bằng cuộc cách mạng vĩ đại ở Việt Nam, trong cuộc cách mạng đó những giá trị của chủ nghĩa Mác-Lênin tiếp tục được Hồ Chí Minh nâng tầm và xác lập những giá trị mang tầm thời đại, tất cả những điều đó đã làm nên một Hồ Chí Minh – một con người, một khía cạnh lịch sử của “nền văn hóa tương lai”./.

----------------------

1. C.Mác, Ph.Ăngghen, Toàn tập (1995), Nxb CTQG Sự Thật, tập 4.

2. Hồ Chí Minh (2011) - Toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội, tập 1, 2, 4, 7, 8.

3. Hồ Chí Minh - Một người châu Á của mọi thời đại, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2010.

4. Hồ Chí Minh - Biên niên tiểu sử, Nxb CTQG, Hà Nội, 2006, tập 1.

5. Hồ Chí Minh - Nhà văn hoá kiệt xuất, Nxb CTQG, Hà Nội, 1999. (David Halberstam - Hồ - Random house, New york, 1970).

6. Bảo tàng Hồ Chí Minh: Bác Hồ với Ấn Độ, Nxb Thông Tấn, Hà Nội, 2003.

7. Trần Dân Tiên, Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ Tịch, Nxb CTQG, Hà Nội, 1994.

8. Trần Đình Huỳnh, Sự vĩ đại chỉ trường tồn khi lòng dạ trong sáng, Tập chí Xây dựng Đảng, đăng ngày 4/2/2012 (http://www.xaydungdang.org.vn/Home/PrintStory.aspx?distribution=4710&print=true)

9. Robert S. Mc Namara: “Nhìn lại quá khứ-tấn thảm kịch và những bài học về Việt Nam”, (1995), Nxb CTQG, HN.

10. Trần Trọng Trung: “Lịch sử một cuộc chiến tranh bẩn thỉu”, (2004), Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.

11. Nghị quyết 24C/18.65 của UNESCO (trích từ từ tập biên bản của Đại hội đồng Khóa họp 24 tại Pa-ri, ngày 20/10 đến 20/11/1987, do UNESCO xuất bản năm 1988. tr 144) về Kỷ niệm 100 năm ngày sinh của Chỉ tịch Hồ Chí Minh, dẫn theo bản dịch của Bảo tàng Hồ Chí Minh và UESCO Việt Nam, 7/2009.

12. Huyền Trang, Dấu chân Bác Hồ ở đảo quốc sương mù, đăng ngày 1/1/2012, (https://www.bqllang.gov.vn/tin-tuc/tin-tong-hop/785-d-u-chan-bac-h-noi-d-o-qu-c-suong-mu.html)


[1] Hồ Chí Minh - Một người châu Á của mọi thời đại, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2010, tr.278.

[2] Nguyễn Trường Tộ, sinh năm 1828, quê làng Bùi Chu, huyện Hưng Nguyên, năm 30 tuổi được Giám mục Gauthier (tên phiên âm tiếng Việt là Ngô Gia Hậu) đưa sang Hương Cảng, Singapore, Ý và học tập ở Pháp gần 2 năm, về nước, ông nổi tiếng trong các lĩnh vực kiến trúc, quy hoạch, xây dựng và cả chính trị, kinh tế, văn hóa, giáo dục, ngoại giao, quân sự. Ông gửi hàng chục bản điều trần tâm huyết lên triều đình nhà Nguyễn đề nghị canh tân đất nước. Nhưng kết quả là “Nhất thất túc, thành thiên cổ hận; tái hồi đầu, thị bách niên cơ” (Một kiếp sa chân, muôn kiếp hận; ngoảnh đầu cơ nghiệp ấy trăm năm).

[3] Từng sang Lào, Nhật Bản và Thái Lan hoạt động yêu nước.

[4] Hồ Chí Minh, Toàn tập (2011), Nxb CTQG Sự Thật, Hà Nội, tập 2, tr. 185

[5] Hồ Chí Minh - Biên niên tiểu sử, Nxb CTQG, Hà Nội, 2006, tập 1, tr 22

[6] Trần Dân Tiên, Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ Tịch, Nxb CTQG, Hà Nội, 1994, tr 13

[7] Hồ Chí Minh (2011) - Toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội, tập 4, tr. 535 - 536

[8] Hồ Chí Minh (2011) - Toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội, tập 1, tr.349

[9] Hồ Chí Minh (2011) - Toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội, tập 1, tr.34

[10] Một người rất ngưỡng mộ và tốn rất nhiều thời gian, công sức, vật chất để nghiên cứu về Chủ tịch Hồ Chí Minh

[11] Trần Đình Huỳnh, Sự vĩ đại chỉ trường tồn khi lòng dạ trong sáng, Tập chí Xây dựng Đảng, đăng ngày 4/2/2012 (http://www.xaydungdang.org.vn/Home/PrintStory.aspx?distribution=4710&print=true)

[12] Ông Len Aldis, Chủ tịch Hội Hữu nghị Anh - Việt, một người bạn thân thiết của Việt Nam, người có công đặt tấm bia tưởng niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh tại nơi từng là khách san Carlton.

[13] Huyền Trang, Dấu chân Bác Hồ ở đảo quốc sương mù, đăng ngày 1/1/2012, (https://www.bqllang.gov.vn/tin-tuc/tin-tong-hop/785-d-u-chan-bac-h-noi-d-o-qu-c-suong-mu.html)

[14] Hồ Chí Minh (2011) - Toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội, tập 2, tr. XI

[15] Hồ Chí Minh (2011) - Toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội, tập 8, tr. 12

[16] Cách gọi chủ nghĩa Mác-Lênin của Nguyễn Ái Quốc, vì ở thời điểm hiện tại, Người chưa được tiếp cận với quan điểm của C.Mác, Ph. Awngghen.

[17] Hồ Chí Minh (2011) - Toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội, tập 1, tr. 497

[18] Báo cáo về Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Nam kỳ được đăng trong Hồ Chí Minh Toàn tập có ghi chú dòng chữ “Tác phẩm có thể là của Chủ tịch Hồ Chí Minh”

[19] Hồ Chí Minh (2011) - Toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội, tập 1, tr. 509

[20] C.Mác, Ph.Ăngghen, Toàn tập (1995), Nxb CTQG Sự Thật, tập 4, tr. 646.

[21] Hồ Chí Minh (2011) - Toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội, tập 1, tr. 497

[22] Hồ Chí Minh (2011) - Toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội, tập 7, tr. 41

[23] Bảo tàng Hồ Chí Minh: Bác Hồ với Ấn Độ, Nxb Thông Tấn, Hà Nội, 2003.

[24] Trong quá trình vận động thành lập Đảng, khi xu hướng cộng sản đã hoàn toàn chiếm ưu thế, tuy nhiên, những người cộng sản Việt Nam chưa thể thống nhất được với nhau, chưa thể thành lập được một tổ chức Đảng thống nhất để lãnh đạo cách mạng. Nguyên nhân thì có nhiều, tuy nhiên không thể phủ nhận sự xung đột lợi ích giữa các tổ chức Đảng. Một cuộc cách mạng thật sự đã diễn ra – cuộc cách mạng lợi ích. Điều đó đã dẫn đến việc thành lập Đảng và Đảng thể hiện và giữ vững vai trò lãnh đạo trong toàn bộ tiến trình cách mạng Việt Nam.

[25] Hồ Chí Minh (2011) - Toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội, tập 4, tr. 1

[26] Robert S. Mc Namara: “Nhìn lại quá khứ-tấn thảm kịch và những bài học về Việt Nam”, (1995), Nxb CTQG, Hà Nội.

[27] Trần Trọng Trung: “Lịch sử một cuộc chiến tranh bẩn thỉu”, (2004), Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.

[28] Hồ Chí Minh - Nhà văn hoá kiệt xuất, Nxb CTQG, Hà Nội, 1999, tr. 123 (David Halberstam - Hồ - Random house, New york, 1970)

[29] Trước âm mưu xâm lược rõ ràng của lực lượng Pôn Pốt và nạn diệt chủng không thể chối cải, quân đội và nhân dân Việt Nam không còn con đường nào khác là phải chiến đấu bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ và giúp nhân dân tiến bộ Campuchia thoát khỏi nạn diệt chủng, trong cuộc chiến đấu đó, hàng triệu chiến sĩ quân tình nguyện, triệu người Việt Nam đã phải chia sẻ từng xuất quân lương, đã phải chia sẻ phần cơm của mình để cứu nhân dân Campuchia thoát khỏi nạn đói khủng khiếp do Pôn Pốt và các thế lực quốc tế ủng hộ Pôn Pốt gây ra, hàng triệu chiến sĩ quân tình nguyện Việt Nam đã để lại một phần thân thể, đã nằm lại vĩnh viễn trên đất nước Campuchia. Sự thật lịch sử đã chứng minh, trong thế kỷ XX, chỉ có hai dân tộc dám hy sinh xương máu của dân tộc mình để cứu dân tộc khác, trong đó, có dân tộc Việt Nam.

[30] Hồ Chí Minh - Một người châu Á của mọi thời đại, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2010, tr.17-18.